Dù chính trị thuộc quyền thống trị của người Mã Lai, xã hội Malaysia hiện đại không đồng nhất, với cộng đồng người gốc Trung Quốc và Ấn Độ khá lớn.[7] Chính trị Malaysia đáng lưu ý ở tính cộng đồng của nó;[8] ba thành phần chính của Barisan Nasional đều giới hạn đảng viên trong sắc tộc của mình. Tuy nhiên, cuộc tranh giành bạo lực lớn duy nhất giữa các cộng đồng từ khi giành được độc lập là vụ náo loạn chủng tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969 xảy ra khi chiến dịch vận động của một tranh cử bị các vấn đề sắc tộc gây ảnh hưởng.[9]
"Ma Lay" theo tiếng Mã Lai là "hoàng kim".
Bán đảo Malay đã phát triển thịnh vượng nhờ vị trí trung tâm của mình trên những con đường thương mại trên biển giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông. Ngay từ sớm, Ptolemy đã thể hiện trên tấm bản đồ của mình một dấu hiệu được dịch là Bán đảo vàng, Eo Malacca được gọi là Sinus Sabaricus.Từ giữa tới cuối thiên niên kỷ thứ nhất, đa số Bán đảo cũng như Quần đảo Malay nằm dưới tầm ảnh hưởng của Srivijaya.
Mọi người cho rằng ban đầu đây là những quốc gia Ấn Độ giáo hay Phật giáo. Bằng chứng đầu tiên của Hồi giáo trên bán đảo Malay có niên đại từ thế kỷ 14 tại Terengganu, nhưng theo Biên niên sử Kedah, Maharaja Derbar Raja thứ 9 của Vương quốc Hồi giáo Kedah đã cải sang đạo Hồi và đổi tên thành Quốc vương Hồi giáo Muzaffar Shah. Từ đó đã có 27 quốc vương Hồi giáo cai trị Kedah.
Có rất nhiều vương quốc Malay ở thế kỷ thứ 2 và 3, theo các nguồn thông tin Trung Quốc, con số này lên tới 30. Kedah cũng được gọi là Kedaram hay Kataha, trong tiếng Pallava hay tiếng Phạn cổ, được cai trị bởi Rajendra Chola, tới thế kỷ 11, dưới sự cai trị của vua Vir Rajendra Chola, tầm ảnh hưởng của Srivijaya, triều đình đã gây ảnh hưởng trên Kedah và Pattani và thậm chí tới cả Ligor, giảm sút.
Bài sưu tầm!